DANH MỤC SẢN PHẨM
Sâu răng - bệnh thường gặp nhưng chớ chủ quan

Sâu răng - bệnh thường gặp nhưng chớ chủ quan

LAVENMED
Th 2 18/12/2023
Nội dung bài viết

Sâu răng là một bệnh do vi khuẩn có thể dẫn đến viêm tủy răng và viêm nha chu, thậm chí có thể gây viêm ổ răng và xương hàm. 

Nếu không được điều trị kịp thời, các tổn thương sẽ tiếp tục phát triển, hình thành các lỗ sâu răng, và cuối cùng thân răng bị phá hủy hoàn toàn và biến mất, và hậu quả cuối cùng của quá trình phát triển của nó là mất răng.

Sâu răng là một trong những bệnh lý thường gặp ở khoang miệng và là một trong những bệnh lý thường gặp ở con người.

Nguyên nhân gây sâu răng

Lý thuyết căn nguyên sâu răng được chấp nhận hiện nay là lý thuyết về bộ tứ yếu tố, trong đó chủ yếu bao gồm vi khuẩn, môi trường miệng, vật chủ (nghĩa là ký sinh trùng bao gồm cả ký sinh trùng, vi rút và các sinh vật ký sinh trên đó) và thời gian.

Những điểm cơ bản là: đường thực phẩm gây cario hóa (đặc biệt là đường sucrose và carbohydrate tinh chế) bám chặt vào bề mặt răng, và màng thu nhận do protein nước bọt tạo thành sẽ bám chặt vào bề mặt răng, và mảng bám sẽ ở nhiệt độ thích hợp. sản xuất axit, xâm nhập vào răng, khử khoáng, và sau đó phá hủy các chất hữu cơ, dẫn đến sâu răng.

Cần chú ý những nguyên nhân gây ra sâu răng để bảo vệ tốt răng miệng của bạn

Cần chú ý những nguyên nhân gây ra sâu răng để bảo vệ tốt răng miệng của bạn

Vi khuẩn, điều kiện cần thiết để xuất hiện sâu răng

Nhìn chung có hai loại vi khuẩn gây bệnh:

Một là vi khuẩn tạo axit, chủ yếu là Streptococcus mutans, Actinomyces và Lactobacillus, chúng có thể phân hủy carbohydrate để tạo ra axit, dẫn đến khử khoáng các chất vô cơ trong răng.

Hai là vi khuẩn gram dương phá hủy chất hữu cơ và có thể gây sâu răng sau khi tác động lâu dài.

Khoang miệng là môi trường bên ngoài của răng và có liên quan mật thiết đến sự xuất hiện của sâu răng: thức ăn và nước bọt đóng vai trò chủ đạo.

Thực phẩm, chủ yếu là carbohydrate. Nó liên quan đến sự hình thành của ma trận mảng bám, và nó cũng là nguồn năng lượng chính của vi khuẩn trong mảng bám.

Vi khuẩn có thể chuyển hóa cacbohydrat (đặc biệt là sacaroza) để tạo ra axit, và tổng hợp polysaccharid ngoại bào và polysaccharid nội bào. Polysaccharid có thể thúc đẩy sự bám dính và tích tụ của vi khuẩn trên bề mặt răng, đồng thời cung cấp nguồn năng lượng khi thiếu đường ngoại sinh.

Vi khuẩn, điều kiện cần thiết để xuất hiện sâu răng

Môi trường

Những thay đổi về số lượng và chất lượng nước bọt có thể ảnh hưởng đến tỷ lệ sâu răng

Trong những trường hợp bình thường, nước bọt có các chức năng sau:

  • Hành động làm sạch cơ học
  • Tác dụng kìm khuẩn
  • Tác dụng kháng axit
  • Chống ho

Khi sự tiết nước bọt giảm, tỷ lệ sâu răng tăng lên. Về mặt lâm sàng, bệnh nhân bị sâu răng có tỷ lệ sâu răng tăng lên đáng kể; bệnh nhân xạ trị răng hàm mặt có thể bị sâu nhiều lần do tuyến nước bọt bị phá hủy.

Mặt khác, khi lượng axit lactic trong nước bọt tăng lên cũng có lợi cho việc xuất hiện sâu răng.

Vật chủ

Răng là cơ quan đích của quá trình sâu răng, và hình dạng, mức độ khoáng hóa và cấu trúc mô của răng có liên quan trực tiếp đến sự xuất hiện của sâu răng.

Thời gian

Sự xuất hiện của sâu răng có một quá trình lâu dài, thường mất 1,5 đến 2 năm từ khi sâu ban đầu đến khi sâu răng hình thành lâm sàng. Vì vậy, ngay cả khi vi khuẩn gây bệnh, môi trường thích hợp và vật chủ nhạy cảm tồn tại đồng thời, sâu răng sẽ không xảy ra ngay lập tức.

Sâu răng cần một quá trình thời gian mới phát hiện ra

Sâu răng cần một quá trình thời gian mới phát hiện ra

Biểu hiện lâm sàng của sâu răng

Thức ăn thường dễ mắc kẹt lại

Sự xuất hiện của sâu răng có liên quan mật thiết đến việc thức ăn có dễ bị giữ lại hay không.

Các vị trí dễ bị sâu răng bao gồm: hố và khe nứt, bề mặt tiếp giáp và cổ răng.

Sâu nhiều răng

Sự phân bố của sâu răng về cơ bản là đối xứng hai bên trái phải, hàm dưới nhiều hơn hàm trên, răng sau nhiều hơn răng cửa, và tỷ lệ sâu của răng cửa hàm dưới là thấp nhất.

Mức độ sâu răng

Trên lâm sàng có thể thấy sự thay đổi về màu sắc, hình dạng và chất lượng của răng sâu, chất lượng là chủ yếu, còn sự thay đổi về màu sắc và hình dạng là kết quả của sự thay đổi về chất. Trên lâm sàng thường chia ra 3 giai đoạn: sâu răng nông, sâu vừa và sâu tùy theo mức độ sâu.

Sâu răng nông: Còn được gọi là sâu răng men, sâu răng chỉ giới hạn trong men răng. Ban đầu, nó xuất hiện dưới dạng mảng phấn do khử khoáng trên bề mặt nhẵn, sau đó trở thành màu nâu vàng do màu sắc. Một lỗ nông giới hạn với men răng xuất hiện, không có triệu chứng và không phản ứng với việc thăm dò.

Sâu răng vừa phải: Sâu răng đã đến lớp bề ngoài của ngà răng và có những vết sâu rõ ràng khi khám lâm sàng. Có thể tiến hành phát hiện cơn đau. Khi nguồn kích thích bị loại bỏ Cơn đau biến mất ngay lập tức mà không có cơn đau tự phát.

Sâu răng nặng: Sâu răng đã đến lớp sâu của ngà răng, biểu hiện chung là sâu lớn và sâu, hoặc lối vào nhỏ và lớp sâu bị tổn thương rộng, phản ứng với các kích thích bên ngoài nặng hơn so với sâu vừa, nhưng có thể vẫn được ngay sau khi cắt bỏ kích thích Giảm đau, không đau tự phát.

Sâu răng tùy theo mức độ có thể gây nguy hiểm cho sức khỏe

Sâu răng tùy theo mức độ có thể gây nguy hiểm cho sức khỏe

Các loại tổn thương nghiêm trọng

Sâu răng mãn tính: nói chung tiến triển chậm, đặc biệt ở người lớn, phần lớn là mãn tính.

Sâu răng cấp tính: thường gặp ở trẻ em, thanh thiếu niên, phụ nữ có thai hoặc những người có sức khỏe kém, tiến triển nhanh và sâu răng mềm hơn.

Sâu răng tĩnh: Khi các yếu tố gây sâu răng tại chỗ bị loại bỏ, quá trình sâu răng diễn ra rất chậm hoặc hoàn toàn dừng lại, được gọi là sâu răng tĩnh.

Sâu răng thứ cấp: Trong quá trình điều trị sâu răng thường xảy ra tình trạng mô sâu không được làm sạch hoặc các mép phục hồi không khít với nhau, dẫn đến hình thành các vết nứt và sâu răng tái phát.

Điều trị sâu răng

Điều trị y tế

Điều trị bằng thuốc là phương pháp ức chế sự phát triển của sâu răng bằng cách bôi thuốc trên cơ sở mài sâu răng. Các loại thuốc thường được sử dụng bao gồm amoniac bạc nitrat và natri florua.

Làm đầy hỗn hống

Hỗn hống (Amalgam) Hỗn hống là hợp kim của thủy ngân (Hg) với kim loại khác. Đối với những răng bị khiếm khuyết nhiều, phục hình hiện đang là phương pháp được áp dụng rộng rãi và hiệu quả nhất.

Quy trình cơ bản có thể được chia thành hai bước: đầu tiên loại bỏ mô răng sâu và mô răng yếu bị mất nâng đỡ, tạo hình khoang hợp lý theo yêu cầu nhất định; sau đó trám lại bằng vật liệu trám để khôi phục lại hình dạng ban đầu. và chức năng.

Nó thích hợp để trám răng sau và răng cửa ở những phần khuất.

Làm đầy bằng nhựa composite

Phù hợp để trám răng cửa và răng sau không chịu lực ăn nhai.

Chất làm đầy nhựa composite cảm quang ăn mòn axit

Chỉ định cũng giống như trám răng bằng nhựa composite, nó cũng phù hợp với những răng có nhiều khuyết điểm, khả năng duy trì kém và che phủ các răng bị đổi màu.

inlay

Inlay là một phần răng mới được làm bằng chất liệu sứ, tạo ra sự phục hồi và thẩm mỹ gần như với răng gốc trước khi bị mất chất. Inlay được dùng trong trường hợp răng bị vỡ/tổn thương trên một bề mặt.

Phục hình bằng kim loại hoặc các vật liệu khác phù hợp với khoang răng, được dát trong khoang, được gọi là lớp phủ; lớp phủ trên bề mặt khớp cắn là lớp phủ.

Áp dụng cho:

  • Các lỗ sâu răng lớn hơn ở bề mặt khớp cắn sau hoặc những chỗ có thể bị gãy các răng sau
  • Những người không thể sửa chữa hô với các răng bên cạnh bằng cách trám răng bên cạnh
  • Làm mố cầu bán cố định

Mối nguy hiểm của sâu răng

Mối nguy hiểm của sâu răng ở người lớn

  • Gây viêm chân răng và các bộ phận khác, sưng cục bộ trong trường hợp nặng, nếu mủ và vi khuẩn ngấm vào có thể gây nhiễm trùng huyết hoặc nhiễm trùng huyết.
  • Rễ xấu không nhai được thức ăn, tăng gánh nặng cho đường tiêu hóa.
  • Đối với người cao tuổi, tình trạng sâu răng nặng có thể làm mất gần hết hoặc toàn bộ răng, không có lợi cho sức khỏe của người cao tuổi.

Mối nguy hiểm của sâu răng ở trẻ em

  • Mất răng, có thể làm giảm chức năng ăn nhai khi có nhiều răng hàm chính.
  • Các chất cặn bã thức ăn đọng lại trong khoang và vi khuẩn tích tụ làm mất vệ sinh răng miệng và ảnh hưởng đến sự xuất hiện của sâu răng ở răng vĩnh viễn.
  • Viêm nha chu ở đỉnh của răng rụng ảnh hưởng đến sự nảy mầm của răng vĩnh viễn di truyền, dẫn đến rối loạn phát triển men răng và quá trình mọc răng bình thường.
  • Tình trạng răng rụng sớm do sâu răng dẫn đến giảm khoảng trống giữa các răng vĩnh viễn và về vị trí bất thường do không đủ chỗ.
  • Sâu răng rụng và thân răng bị hư hỏng dễ làm tổn thương mô niêm mạc miệng tại chỗ.
  • Răng bị rụng bị hư hại nghiêm trọng khiến chức năng ăn nhai bị giảm sút, ảnh hưởng đến lượng dinh dưỡng của trẻ, ảnh hưởng đến sự tăng trưởng và phát triển của trẻ.
  • Sự phát triển của sâu răng rụng lá thành bệnh quanh răng có thể được sử dụng như một chiếc răng khu trú để gây nhiễm trùng khu trú ở các mô khác của cơ thể.
  • Ảnh hưởng đến thẩm mỹ và cách phát âm chính xác.

Trẻ em và người lớn đều cần chú ý làm sạch răng miệng bằng máy tăm nước và bàn chải hàng ngày, đúng cách

Trẻ em và người lớn đều cần chú ý làm sạch răng miệng bằng máy tăm nước và bàn chải hàng ngày, đúng cách

Công việc chống sâu răng nên bắt đầu ngay khi răng mọc

  • Đánh răng vào buổi sáng và buổi tối, và hình thành thói quen súc miệng sau bữa ăn.
  • Ăn ít thức ăn có tính axit và không ăn vặt trước khi đi ngủ.
  • Ăn ít thức ăn có nhiều đường, chẳng hạn như đường, sô cô la, bánh quy, v.v.
  • Tránh thức ăn cứng để tránh mòn răng.
  • Ít nhất một lần khám răng mỗi năm trên 12 tuổi.
  • Ăn uống đầy đủ dinh dưỡng với nhiều thức ăn thô, giàu chất xơ.
  • Tham gia tập thể dục thường xuyên.

Theo Lavenmed.com

Viết bình luận của bạn

Hỏi đáp - Bình luận

Nội dung bài viết
Thu gọn